Nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 7 tháng 10 sắp tới, cựu thượng phụ La Tinh của Giêrusalem, Michel Sabbah, người Palestine đầu tiên giữ chức vụ này, và các thành viên của tổ chức Christian Reflection từ Giêrusalem công bố các suy tư sau đây:



Ngày 7 tháng 10 năm 2024

Sau một năm chiến tranh liên miên, khi chu kỳ tử thần vẫn tiếp diễn không ngừng, chúng ta cảm thấy cần phải là các Ki-tô hữu và những công dân tìm hy vọng từ đức tin của mình. Trước tiên, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã kiệt sức, tê liệt vì đau buồn và sợ hãi. Chúng ta đang nhìn chằm chằm vào bóng tối.

Toàn bộ khu vực đang chìm trong cảnh đổ máu liên tục leo thang và không chừa một ai.

Trước mắt chúng ta, Đất Thánh yêu dấu của chúng ta và toàn bộ khu vực đang bị biến thành đống đổ nát.

Hàng ngày, chúng ta thương tiếc hàng chục nghìn người đàn ông, đàn bà và trẻ em đã thiệt mạng hoặc bị thương, đặc biệt ở Gaza, nhưng cũng ở Bờ Tây, Israel, Lebanon và xa hơn nữa ở Syria, Yemen, Iraq và Iran.

Chúng ta vô cùng phẫn nộ trước sự tàn phá mà khu vực này phải gánh chịu. Ở Gaza, nhà cửa, trường học, bệnh viện, toàn bộ khu phố giờ đây chỉ còn là đống đổ nát. Bệnh tật, nạn đói và sự tuyệt vọng đang ngự trị. Đây có phải là mô hình cho khu vực của chúng ta sẽ trở thành không?

Xung quanh chúng ta, nền kinh tế đang bị tàn phá, việc làm bị chặn đứng và các gia đình gặp khó khăn trong việc kiếm thức ăn. Ở Israel, quá nhiều người đang than khóc, sống trong lo lắng và sợ hãi. Phải có cách khác!

Thảm họa của chúng ta không bắt đầu vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Các chu kỳ bạo lực đã không có hồi kết, bắt đầu từ năm 1917, đạt đỉnh vào năm 1948 và năm 1967, tiếp tục kể từ đó, cho đến ngày nay. Và ngày nay, giấc mơ của người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái về một ngôi nhà an toàn cho người Do Thái tại một quốc gia Do Thái có tên Israel có mang lại an ninh cho người Do Thái không? Còn người Palestine? Họ đã bị cuốn vào thực tại cái chết, sự lưu đày và sự bỏ rơi quá lâu, chờ đợi trong khi liên tục đòi quyền được ở lại đất nước của họ, tại các thị trấn và làng mạc của họ.

Thật đáng kinh ngạc, cộng đồng quốc tế chỉ nhìn vào gần như vô cảm. Những lời kêu gọi ngừng bắn và chấm dứt sự tàn phá được lặp lại mà không có nỗ lực có ý nghĩa nào để kiềm chế những kẻ gây ra sự tàn phá. Vũ khí hủy diệt hàng loạt và phương tiện phạm tội ác chống lại loài người tràn vào khu vực này.

Khi tất cả những điều này tiếp diễn, những câu hỏi vang lên: Khi nào thì điều này sẽ kết thúc? Chúng ta có thể tồn tại như thế này trong bao lâu? Tương lai của con cháu chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta có nên di cư không?

Là các Ki-tô hữu, chúng ta cũng phải đối đầu với những tình huống khó xử khác: Đây có phải là một cuộc chiến mà chúng ta chỉ là những người đứng ngoài thụ động? Chúng ta đứng ở đâu trong cuộc xung đột này, thường được trình bày là cuộc đấu tranh giữa người Do Thái và người Hồi giáo, giữa Israel, một bên, và Hamas và Hezbollah được Iran hỗ trợ, bên kia? Đây có phải là một cuộc chiến tranh tôn giáo không? Chúng ta có nên cô lập mình trong sự an toàn bấp bênh của các cộng đồng Ki-tô giáo của chúng ta, tách mình khỏi những gì đang diễn ra xung quanh chúng ta không? Chúng ta chỉ đứng ngoài quan sát và cầu nguyện, hy vọng rằng cuộc chiến này cuối cùng sẽ qua đi?

Câu trả lời là không. Đây không phải là một cuộc chiến tranh tôn giáo. Và chúng ta phải chủ động đứng về một phía, phía công lý và hòa bình, tự do và bình đẳng. Chúng ta phải sát cánh cùng tất cả những người Hồi giáo, Do Thái giáo và Ki-tô giáo, những người tìm cách chấm dứt cái chết và sự hủy diệt.

Chúng ta làm như vậy vì đức tin của chúng ta vào một vị Chúa hằng sống và trong niềm tin rằng chúng ta phải cùng nhau xây dựng một tương lai. Mặc dù cộng đồng Ki-tô giáo của chúng ta còn nhỏ, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng sự hiện diện của chúng ta là mạnh mẽ. Tin tưởng vào sự phục sinh của Người, chúng ta có ơn gọi giống như men trong bột nhào của xã hội. Với những lời cầu nguyện, tình liên đới, sự phục vụ và hy vọng sống động của mình, chúng ta phải khuyến khích tất cả những người xung quanh chúng ta, thuộc mọi tín ngưỡng và những người không có đức tin, tìm sức mạnh để tự vực dậy khỏi sự kiệt sức tập thể và tìm ra con đường phía trước.

Nhưng không ai trong chúng ta có thể làm điều này một mình. Chúng ta trông cậy vào các nhà lãnh đạo Ki-tô giáo, các giám mục và các linh mục của mình để được hướng dẫn. Chúng ta cần những người chăn dắt giúp chúng ta nhận ra sức mạnh mà chúng ta có khi ở bên nhau. Khi ở một mình, mỗi người chúng ta đều bị cô lập và bị thu hẹp vào im lặng. Chỉ khi ở bên nhau, chúng ta mới có thể tìm thấy nguồn lực để đối đầu với những thách thức.

Trong sự kiệt sức và tuyệt vọng của chúng ta, chúng ta hãy nhớ đến người bại liệt (Mc 2: 1-12) không thể đứng dậy. Chỉ khi bạn bè anh ta khiêng anh ta, khi họ dùng trí tưởng tượng của mình để tạo một lỗ trên mái nhà và hạ anh ta xuống trên chiếu của anh ta, thì anh ta mới có thể với tới Chúa Giêsu, Đấng đã nói với anh ta: "Hãy đứng dậy và bước đi."

Chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải nâng đỡ nhau nếu chúng ta muốn tiến về phía trước. Chúng ta phải sử dụng trí tưởng tượng của mình, bắt nguồn từ Chúa Kitô, để tìm ra những lối mở ở nơi dường như không có. Khi chúng ta đã đạt đến giới hạn của hy vọng, chúng ta cùng nhau nâng đỡ nhau, khi chúng ta hướng về Chúa và cầu xin sự giúp đỡ.

Chúng ta cần sự giúp đỡ này để không tuyệt vọng, không rơi vào bẫy hận thù. Đức tin của chúng ta vào Sự Phục sinh dạy chúng ta rằng tất cả con người đều được yêu thương, bình đẳng, được tạo ra theo hình ảnh

của Chúa, là con cái của Chúa và là anh chị em của nhau. Niềm tin của chúng ta vào phẩm giá của mỗi con người được thể hiện trong việc chúng ta phục vụ cộng đồng rộng lớn hơn. Trường học, bệnh viện, dịch vụ xã hội của chúng ta là những nơi chúng ta chăm sóc tất cả những người cần, không phân biệt đối xử.

Cũng chính đức tin thúc đẩy chúng ta nói lên sự thật và phản đối bất công. Chúng ta là những người tin vào sự bình an mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta và không thể bị tước đoạt. Người là sự bình an của chúng ta” (Ê-phê-sô 2:14). Chúng ta không được sợ lên tiếng phản đối bất cứ hình thức bạo lực, giết chóc và phi nhân tính nào. Đức tin của chúng ta khiến chúng ta trở thành người phát ngôn cho một vùng đất không có tường thành, không phân biệt đối xử, người phát ngôn cho một vùng đất bình đẳng và tự do cho tất cả mọi người, cho một tương lai trong đó chúng ta cùng chung sống.

Chúng ta sẽ chỉ biết đến hòa bình khi thảm kịch của người dân Palestine chấm dứt.

Chỉ khi đó, người Israel mới được hưởng an ninh. Chúng ta cần một thỏa thuận hòa bình dứt khoát giữa hai đối tác này chứ không phải lệnh ngừng bắn tạm thời hoặc các giải pháp tạm thời. Lực lượng quân sự hùng mạnh của Israel có thể hủy diệt và gây ra cái chết, có thể xóa sổ các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự và bất cứ ai dám đứng lên phản đối sự chiếm đóng và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, nó không thể mang lại an ninh mà người Israel cần. Cộng đồng quốc tế phải giúp chúng ta bằng cách nhận ra rằng nguyên nhân gốc rễ của cuộc chiến này là sự phủ nhận quyền của người dân Palestine được sống trên mảnh đất của mình, tự do và bình đẳng.

Một tương lai hòa bình phụ thuộc vào việc sống với nhau vượt ra ngoài cộng đồng của chúng ta.

Chúng ta là một dân tộc, cả người theo Ki-tô giáo lẫn người theo đạo Hồi. Chúng ta phải cùng nhau tìm kiếm con đường vượt qua các chu kỳ bạo lực. Cùng với họ, chúng ta phải tham gia với những người Do Thái Israel cũng mệt mỏi với những lời lẽ hoa mỹ, những lời dối trá, những ý thức hệ về cái chết và sự hủy diệt.

Chúng ta hãy lên đường, cùng nhau gánh vác. Chúng ta hãy giữ cho hy vọng sống động, biết rằng hòa bình là điều khả hữu.. Sẽ rất khó khăn nhưng chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta đã từng sống cùng nhau trên vùng đất này với tư cách là người Hồi giáo, người Do Thái và người Ki-tô giáo. Sẽ có nhiều khoảnh khắc con đường dường như bị chặn lại. Nhưng cùng nhau chúng ta sẽ mở ra một con đường tiến về phía trước, bắt nguồn từ hy vọng của Chúa, và "hy vọng không làm chúng ta thất vọng." (Rô-ma 5:5). Hy vọng của chúng ta nằm ở Chúa, ở chính chúng ta và ở mỗi con người mà Chúa ban cho một số lòng tốt của Người.

Đức Thượng phụ Michel Sabbah
và các thành viên của Christian Reflection từ Giêrusalem