Ephesians, Epistle To The
Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô. Là một trong những lá thư giáo dục của thánh Phaolô, được viết từ Roma trong thời gian ngài bị giam tù lần đầu (năm 61-63). Hầu hết lá thư là như một thư luân lưu, có chủ đề là sự hiệp nhất của các tín hữu với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, với tư cách là thành viên của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự qui chiếu với hôn nhân như là một mầu nhiệm, hàm chứa sự hiệp nhất của Chúa Kitô và Giáo hội (5:32), đã làm cho lá thư này trở thành nguồn cổ điển của giáo lý Giáo hội về bí tích Hôn phối.
Ephpheta
Ephpheta, Ép-pha-tha, “Hãy mở ra”. Ephpheta là mệnh lệnh cách của động từ “mở ra” trong tiếng Aramaic. Là một phần của phép rửa tội ở nơi nào được Hội đồng giám mục chấp thuận. Vị chủ tế chạm vào tai và môi của mỗi đứa trẻ được rửa tội, và nói: “Nguyện xin Chúa Giêsu, Người đã làm cho người điếc được nghe và người câm được nói, ban cho con sớm đón nhận Lời Chúa và và tuyên xưng đức tin, để chúc tụng và vinh danh Thiên Chúa Cha”. Mọi người tham dự trả lời Amen. Nghi thức này giống việc Chúa chữa người vừa điếc vừa ngọng trong Tin mừng (Mc 7:31-37).
Ephraim
Ephraim, ông Ép-ra-im. Là thứ nam của tổ phụ Giuse (St 41), sinh tại Ai Cập trong thời gian bảy năm được mùa. Ưu thế của Ephraim trên người anh Manasses (Mơ-na-se) được nhìn thấy trong sự chúc phúc mà ông nhận được từ ông nội Jacob (Gia-cóp, St 48). Jacob nhận Manasses và Ephraim làm con trai của mình, cho họ đứng đầu hai chi tộc, nhưng ông thương cậu em hơn, bằng cách đặt tay phải của ông lên Ephraim. Chi tộc của Ephraim trở nên nổi bật với giá trị và sự thịnh vượng, nhưng rồi ghen tị với ưu thế tinh thần của Judah (Giu-đa). Chi tộc Ephraim gây ra cuộc bạo loạn và tách rời khỏi nhà David. Jeroboam I (III??? Vua 11) trở thành thủ lĩnh của 10 chi tộc ở miền bắc, và sau khi ly khai, câu chuyện của chi tộc Ephraim đã bị hấp thu vào trong lịch sử các chi tộc miền bắc.
Epigonation
Áo lễ. Là áo lễ theo nghi lễ Hi Lạp và Armenia. Nó có hình dáng như viên kim cương, bằng chất liệu cứng, được thêu, và treo từ vai xuống đến dưới đầu gối phải. Nguồn gốc của áo này là không rõ ràng, nhưng hiện nay nó tượng trưng cho lưỡi gươm công lý thiêng liêng. Trong Giáo hội Tây phương, chỉ có Đức Giáo hoàng mang áo này. (Từ nguyên Latinh epigonus, người kế vị; từ chữ Hi Lạp epigonos, từ chữ epigignesthai, sinh sau.)
Epikeia
Epikeia, lệ đình luật. Là việc giải thích tự do một luật trong các trường hợp không được quy định bởi chữ của luật. Nó giả thiết sự thành thực trong việc muốn tuân giữ luật, và giải thích ý định của người làm luật trong việc nêu ra được ý định của người ấy bao hàm trong một tình huống không được luật nói tới. Nó ủng hộ sự tự do của người giải thích mà không trái ngược với ý muốn rõ ràng của người làm luật. (Từ nguyên Hi Lạp epieikes có lý, hợp lý.)
Epiklesis
Epiklesis, phần kinh khẩn cầu Thánh Linh. Là kinh khẩn cầu Chúa Thánh Linh do chủ tế đọc sau lời Truyền phép. Kinh được đọc trong mọi phụng vụ của Đông phương và được xem là cốt yếu trong Giáo hội Chính Thống cho hiệu lực của Hy tế tạ ơn. Kể từ Công đồng chung Vatican II mọi Lễ Quy mới của Thánh lễ đều có Kinh khẩn cầu Thánh Linh.
Epiphany
Lễ Hiển linh, Lễ Chúa tỏ mình ra, lễ Ba Vua. Là lễ kỷ niệm việc Chúa tỏ mình cho dân ngoại mà đại diện là các Đạo sĩ (Ba vua), cũng như kỷ niệm việc Chúa chịu phép Rửa và phép lạ đầu tiên tại Cana. Ở Đông phương, lễ này được mừng từ thế kỷ thứ ba và sớm lan sang Tây phương, nơi lễ thường gọi là lễ Ba Vua. Tại một số quốc gia, lễ được gọi là lễ “Đêm thứ mười hai” (sau lễ Chúa Giáng sinh) và là dịp cử hành lễ đặc biệt. Trong nhiều thế kỷ, lễ Hiển linh là một lễ buộc ở nhiều nơi. (Từ nguyên Hi Lạp epiphaneia, xuất hiện, tỏ mình.)
Episcopal Conference
Hội đồng Giám mục. Là một hình thức hội họp, trong đó “các giám mục của một quốc gia hoặc một miền liên đới thi hành phận sự mục vụ, để lợi ích mà Giáo Hội cống hiến cho con người được phát triển hơn, nhất là nhờ các hình thức tông đồ và những phương pháp thích hợp với hoàn cảnh hiện đại” (Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh Christus Dominus, III, 38). Các đấng bản quyền địa phương và các giám mục phó có quyền bầu cử và biểu quyết. Mỗi Hội đồng viết ra quy chế riêng cho minh, và đệ trình Tòa thánh phê chuẩn. Các quyết định của Hội đồng giám mục có hiệu lực như luật, khi các quyết định này đươc chấp thuận hợp lệ bởi ít là 2/3 số các giám mục có quyền biểu quyết, và được Tòa Thánh chuẩn y, nhưng chỉ trong các trường hợp được quy định bởi luật tập tục, hoặc khi được tuyên bố bởi một chỉ thị đặc biệt của Tòa thánh. Chỉ thị này có thể đến từ Rome theo sáng kiến riêng của Tòa thánh, hay để đáp ứng cho đề nghị của chính Hội đồng giám mục.
Episcopal Curia
Phủ Giáo phận. Là một nhóm người phụ giúp một giám mục, hoặc một chức sắc thay thế giám mục, trong việc quản trị Giáo phận.
Episcopalians
Anh giáo ở Mỹ. Là người theo Anh giáo (Anglican), hay là thành viên của Cộng đồng Anh giáo, nhưng được gọi là Episcopalian ở một số quốc gia, chẳng hạn Mỹ. Anh Giáo đến Mỹ năm 1607, với những người nhập cư ở Jamestown, bang Virginia, và năm 1783 người Anh giáo ở Mỹ lập thành Giáo hội Giám chế Tin lành. Họ tự tuyên bố được tự do đối với mọi quyền bính nước ngòai, dù là đời hay đạo, nhưng vẫn giữ phụng vụ giống với Anh giáo. Hội nghị lần đầu của họ (năm 1783) cũng duyệt lại Sách Kinh Chung. 69 ngày lễ bị bỏ khỏi lịch tôn giáo của họ, “Sách chữ đỏ về y phục thánh lễ” quy định áo lễ cũng bị bỏ, và trong giáo lý liên quan đến mình Máu Thánh Chúa “được tín hữu nhận và rước thật sự” đổi thành “được tín hữu nhận và rước cách thiêng liêng”. Một kết quả là Anh giáo ở Mỹ phản ảnh toàn thể các bộ mặt của Anh giáo, từ các giáo hội Anh-Công-giáo vốn gần gũi với Công giáo trong đức tin và phụng vụ, qua các Thượng Giáo hội, Trung Giáo hội đến các nhóm Hạ Giáo hội, vốn là thuộc dòng chính của Tin lành Phúc Âm.
Episcopalis Potestatis
Tông thư Episcopalis Potestatis. Là tông thư công bố tự sắc của Đức Giáo hoàng Phaolô VI, đặt ra quy định trao cho giám mục của các Giáo hội Đông Phương có quyền ban chuẩn miễn. (Ngày 2-5-1967).
Episcopal See
Tòa Giám mục, giáo phận. Là giáo phận hay một lãnh thổ được một giám mục điều khiển. Tòa thánh thiết lập các giáo phận mới, phân chia giáo phận, sát nhập giáo phận hay xoá bỏ giáo phận. Trong thời Giáo hội sơ khai, các thành phố lớn đều là một giáo phận. Do đó, vào cuối thế kỷ thứ nhất đã có một trăm giáo phận chung quanh Địa Trung Hải, tập trung trong một trăm thành phố chính của Đế quốc Roma. Ngày nay nhiều giáo phận được thiết lập ở các thành phố nhỏ hơn, và thường được thay đổi cho phù hợp với nhu cầu của dân số công giáo đang thay đổi.
Episcopate
Chức Giám mục. Là sự viên mãn của bí tích Truyền chức thánh qua đó một linh mục trở thành giám mục và có quyền tấn phong các giám mục khác và truyền chức cho các thầy sáu trở thành linh mục, ban bí tích thêm sức, và là thành viên của Hội đồng giám mục, với quyền tài phán tùy theo các khoản luật Giáo hội và các chỉ định của Tòa Thánh.
Epistemology
Nhận thức luận, khoa học luận. Là một ngành của triết học kinh viện nghiên cứu các nguyên lý làm nền tảng cho việc đạt nhận thức, các phương pháp lý luận hợp lý, và sự đánh giá phê bình về sự thật, tính xác thực và suy nghĩ đúng. (Từ nguyên Hi Lạp epist_m_, hiểu biết + logia, khoa học.)
Epistle
Thánh thư. Trong phụng vụ, trước Công đồng chung Vatican II, thường các bài đọc lấy từ một trong các thư của các thánh Tông đồ và đọc trong Thánh lễ sau Kinh tổng nguyện, ở phía tay phải của linh mục ở bàn thờ, nên phía này được gọi là phía Thánh thư. Theo luật, thường chỉ có một bài thánh thư, nhưng vào một số lễ có nhiều bài Thánh thư. Trong lễ Đại triều, bài Thánh thư được một Phụ phó tế (thầy năm) hát theo cung bình ca. Trong phụng vụ duyệt lại, Thánh thư đã trở thành Bài đọc 1 và Bài đọc 2. (Từ nguyên Latinh epistola, lá thư; từ chữ Hi Lạp epistole, thông điệp, thư.)
Epistolarium
Epistolarium, sách Thánh Thư. Là sách phụng vụ chứa các bài thánh thư, vốn được thầy Phụ phó tế đọc hay hát trong lễ Đại triều.
Equality
Bình đẳng, bằng nhau, bình quyền. Nói chung, là tình trạng bình đẳng, bình quyền. Tuy nhiên, có hai cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của chữ này. Hữu thần thuyết, vồn cho rằng có một Chúa ngôi vị, định nghĩa bình đẳng như là khả năng mọi người phải đạt đến số mệnh đời đời của mình, và do đó có quyền đòi hỏi các phương tiện để đạt đến mục đích mà vì đó họ được dựng nên. Theo các định đề này, hữu thần thuyết công nhận rằng không có hai người là hoàn tòan bình đẳng trong sự chiếm hữu mọi sự, vì những gì họ có đều là quà tặng của Chúa cho họ. Trong khi đó quan điểm vô thần về con người xem con người là chủ yếu bám lấy dương thế, mà không có định mệnh bảo đảm cho họ sau khi chết. Vì thế, quan điểm này tái định nghĩa bình đẳng theo ý nghĩa trần thế, như là sự tiếp cận bình đẳng các điều tốt lành của cuộc sống trên trái đất này. Do đó, sự bất bình đẳng trở thành sự xa rời khỏi tính giống nhau kiểu toán học này, trong việc chia sẻ tài nguyên thế giới để tạo thỏa mãn cho con người.
Equiprobabilism
Đồng cái nhiên thuyết. Một thuyết luân lý nghiêm ngặt để giải quyết các hoài nghi thực tiễn. Đồng cái nhiên thuyết đòi hỏi rằng ý kiến ủng hộ sự tự do phải là cái nhiên ngang bằng hoặc gần ngang bằng với ý kiến ủng hộ luật. Hơn nữa, người ta chỉ có thể áp dụng nguyên tắc này khi sự hòai nghi liên quan đến sự hiện hữu của luật, chứ không trong sự hoài nghi là liệu hiện nay luật đã ngưng ràng buộc hoặc đã hoàn thành hay không.
Equity
Luật công lý, công bằng, chính trực, vô tư. Là sự áp dụng khôn ngoan của luật thực chứng cho các hòan cảnh đặc biệt, với sự xem xét sự công bằng tự nhiên hay được mặc khải, và vì tinh thần chứ không thuần túy theo chữ của luật. Việc quá nghiêm ngặt khi áp dụng một luật nhất định, dù là luật đời hay luật đạo, có thể trở thành phi nhân mặc dầu nó hòan tòan phù hợp với những gì luật đã quy định. (Từ nguyên Latinh aequus, bằng nhau, công bằng; phải lẽ, đúng.)
Equivocal
Mơ hồ, khả nghi, lập lờ, hai nghĩa. Là một từ ngữ hay một lời có hai hay nhiều nghĩa khác nhau, với sự giống nhau về từ hoặc cách đọc. Sự mơ hồ hai nghĩa này là một sự giả dối được ngụy trang. (Từ nguyên Latinh aequivocus, giống tên.)
Erastianism
Học thuyết Erastus. Là thuyết về mối quan hệ Giáo hội-Nhà nước, lấy theo tên của Thomas Erastus (1524-83), một đồ đệ của Huldreich Zwingli (1484-1531), và ông có tên thật là Thomas Lieber. Luận đề chính của thuyết này là sự ưu thắng của các nhà cầm quyền dân sự trong các vấn đề tôn giáo. Nền tảng của thuyết là sự lọai suy ám chỉ giữa các sự miễn chuẩn của Do thái giáo và Kitô giáo. Học thuyết Erastus trở thành sự biện minh thần học cho các giáo hội thiết định tại Anh và các nơi khác.
Eros
Eros, Dâm thần, tình dục, dục lực. Nguyên thủy trong thần thọai Hi lạp là thần tình yêu. Trong từ vựng Kitô giáo, eros là tình yêu chiếm hữu; nó là tình yêu ước muốn điều lợi cho mình mà thôi. Nó là tình yêu thủ đắc trong bất cứ bình diện tự thỏa mãn nào, với điều được cho là được yêu thích, trong đó có việc học hành, nghệ thuật, hoặc ở bình diện thấp hơn, lạc thú tính dục, ăn uống, hoặc tiện nghi cho thể xác. Từ ngữ là rất quen thuộc trong dạng tĩnh từ erotic (gợi tình) hay sexual (tình dục). (Từ nguyên Hi Lạp er_s, tình yêu.)
Erroneous
Sai lầm, lầm lẫn, sai sót. Là giáo vạ thần học mà Giáo hội áp đặt cho một số tuyên bố. Một điều được cho là sai lầm khi nó đi ngược lại một kết luận hợp lý phái sinh từ một tín lý được mặc khải.
Error
Sai lầm, nhầm lẫn, lệch lạc, sai sót. Là sự bất đồng tích cực giữa tâm trí và đối tượng; là một phán đóan sai lầm. Cốt yếu cho một sai lầm là việc tâm trí quan niệm một điều là thế này thế nọ, nhưng điều đó trái ngược với trong thực tế nó là. Khái niệm sai lầm cũng áp dụng cho một lầm lỗi trong sự chính xác hay hợp lệ của lý luận. Sai lầm khác với sự vô tri trong việc khẳng định tích cực trong tâm trí điều không khách quan nằm ngoài tâm trí.
Esau
Esau, ông Ê-xau. Là con trai của ông Isaac (I-xa-ác) và bà Rebekah (Rê-bê-ca), và là anh em sinh đôi với Jacob (St 25:24). Esau, cũng còn gọi là Edom (Ê-đôm) do màu tóc đo đỏ của ông, là một con người thô kệch và vất vả, trong khi Jacob là người khôn lanh và tính tóan. Điều này đuợc minh họa trong câu chuyện Easu bán quyền trưởng nam cho em mình để lấy bữa ăn với bánh và cháo đậu (St 25:29-34). Sự giả dối của Jacob được nêu ra trong âm mưu, khi mẹ ông và ông nấu món ăn ngon để xin thân phụ mù mắt và sắp qua đời chúc phúc cho, khi ông Jacob ăn mặc giả như Esau. Sự bất hòa của hai anh em kéo dài nhiều năm (St 27), nhưng khi Jacob tìm cách làm hòa, Esau đã ngạc nhiên tha thứ trong ánh sáng của tính cách xấu xa của Jacob. Mặc dầu quan hệ giữa hai người được tăng cường, họ cư ngụ trong các vùng khác nhau của đất nước (St 32, 33), vì “họ quá nhiều tài sản không ở chung được" (St 36:7).
Eschatology
Cánh chung học, thế mạt luận. Là ngành của thần học hệ thống thảo luận các sự sau: sự chết, phán xét riêng và chung, thiên đàng, hỏa ngục và luyện ngục. Mọi điều thiết yếu của cánh chung học đã được Giáo hội định nghĩa rõ ràng, nhất là Công đồng Lateran thứ tư (năm 1215) và tông hiến Benedictus Deus của Đức Giáo hòang Benedict XII năm 1336. (Từ nguyên Hi Lạp eschatos, sau cùng + logos, bàn về.)
Esoteric
Bí hiểm, huyền bí, bí truyền, riêng tư. Là điều gì chỉ được biết bởi một số ít chuyên viên hoặc người khởi xướng. Được áp dụng riêng cho các thuyết bí mật của người theo phái khắc kỷ, hoặc cho các thành viên huyền bí của nhóm huynh đệ Pythagore. Từ trái nghĩa là exoteric (công truyền, công khai). (Từ nguyên Latinh esotericus; từ chữ esoterikos, bên trong; bí mật.)
Espousals
Hôn ước. Là khế ước chính thức của hôn nhân tương lai; sự hứa hôn giữa hai người nam nữ đã cam kết kết hôn.
Espousals, Spiritual
Hôn ước thiêng liêng. Là sự kết ước tình yêu bí nhiệm giữa Chúa và một số linh hồn ưu tuyển, được nâng lên mức độ cao nhất của chiêm niệm. Thiên Chúa mặc khải sự cao cả của Chúa cho những người này, tô điểm họ với các hồng ân đặc biệt, và kết hiệp với họ như lời thề của hôn nhân thiêng liêng. Hôn ước này là hoàn tòan thiêng liêng, qua đó linh hồn con người được kết hiệp với Chúa Thánh Thần.
Esse
Esse, hữu thể, hiện hữu. Từ ngữ Esse (là) được dùng như một danh từ. Đó là hành vi của hiện hữu. Trong các hữu thể hữu hạn, đây là nguyên lý hiện hữu để phân biệt với yếu tính hay bản tính của họ. Chỉ trong Chúa, yếu tính và hiện hữu là một mà thôi. (Từ nguyên Latinh esse, là; hữu thể, hiện hữu.)
Essence
Yếu tính, bản chất, cốt tủy. Là nguyên lý nội tại qua đó một vật là chính nó chứ không là gì khác. Đôi khi yếu tính là cũng giống như hữu thể, nhưng là hữu thể thuần túy, khẳng định rằng một vật là chính nó, mà không nói rõ các đặc tính hòan hảo của nó. Yếu tính không giống với bản tính, vốn đưa thêm vào bản tính khái niệm hạot động, nghĩa là bản tính là yếu tính của họat động. Yếu tính cũng là bản thể, nhưng không phải mọi yếu tính là bản thể, bởi vì các thuộc tính cũng có một yếu tính. (Từ nguyên Latinh essentia, yếu tính, hữu thể.)
Essenes
Phái Êsêniô. Là các nhóm người Do thái sống khổ hạnh trước công nguyên, không được nêu tên trong Kinh thánh hoặc sách Talmud (Huấn giáo Do Thái), nhưng được nhắc đến bởi Philo (năm 20 trước Công nguyên-năm 40 Công nguyên), Josephus (năm 37 trước Công nguyên-khỏang năm 100), và Pliny Cả (năm 23-79). Danh từ này có nghĩa là “những người đạo đức”. Họ dường như bắt đầu sống khổ hạnh vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, và chấm dứt phái này vào thế kỷ thứ hai, và luôn tồn tại ở Palestine. Theo Josephus, số người theo phái này là khỏang bốn ngàn người vào cuối thế kỷ thứ nhất. Họ là một hội chuyên biệt, chủ yếu làm nông nghiệp. Nói chung họ không lập gia đình, nhưng không bác bỏ giá trị hôn nhân, và tuyển người vào hội bằng cách nhận trẻ em làm con nuôi. Họ thực hiện đời sống cộng đòan cách nghiêm ngặt nhất, và cũng là hệ thống đẳng cấp cứng rắn. Ngòai mê tín dị đoan, họ còn tin Đức Chúa (Giavê) và vào sự bất tử. Họ hầu như bị quên lãng trong lịch sử tôn giáo, cho đến khi người ta phát hiện các Sách cuộn Biển Chết vào năm 1947. Hầu như chắc chắn đây là một cộng đòan phái Êsêniô, đã làm ra kho tàng văn chương được tìm thấy ở Qumran, gần Biển Chết. (Từ nguyên Hi Lạp hosioi, người thánh, tu sĩ; hoặc từ chữ Aramaic, người thinh lặng.)
Esther
Bà Esther, bà Étte, Sách Esther (Et). Là con nuôi và em họ của ông Mordecai (Móoc-đo-khai), bà còn được gọi là Hadassah (Ha-đát-xa, Et 2:15). Bà là một gương mặt anh hùng truyền thống của người Do Thái, bởi vì bà đã khử trừ ông Haman, một vị quan uy quyền trong cung điện vua Ahasuerus' (A-suê-rô). Sau khi xua đuổi hòang hậu Vashti (Vát-ti), vua chọn bà Esther làm vợ của mình (Et 2:17). Dùng sắc đẹp và trí thông minh của mình để chiến thắng Haman do ông tìm cách lọai trừ người Do Thái, bà làm cho ông bị án tử hình trên giá treo cổ, án phạt mà ông dự trù gán cho ông Mordecai (Et 3-6). Cuộc đấu tranh nhấn mạnh đến lòng yêu nước và yêu sắc tộc mình hơn là khát vọng tôn giáo (Et 7:10). Đây là câu chuyện sống động và hào hứng, mà các biến cố trong đó được người Do Thái trên thế giới cử hành vào Ngày lễ Purim hàng năm (Et 9:27-28). Sách Esther (Et) được một tác giả vô danh viết, có lẽ không trễ hơn thời đại của Ezra. Bản văn được viết thành hai bản, một bản ngắn bằng tiếng Do Thái cổ và một bản dài băng tiếng Hi Lạp. Kinh thánh Công giáo theo cuốn bằng tiếng Do Thái cổ, và đưa thêm các đoạn văn còn thiếu (10-16) tử bản Hi lạp vào.
Estrangement
Sự ly gián, sự làm cho xa rời, sự ghẻ lạnh. Nói chung, là sự ly gián tình cảm của một người khỏi một người khác. Trong từ ngữ thần học, sự ghẻ lạnh là sự làm cho người tội lỗi xa cách Chúa. Nó bị gây ra bởi một sự cố tình phạm tội, được cho là tội trọng, và kết quả là mất tình yêu siêu nhiên, và hệ quả là mất ơn thánh sủng.
Estremadura
Đền thánh Đức Mẹ Estremadura. Là Ðền thánh Đức Mẹ nổi tiếng nhất tại Tây Ban Nha, với tước hiệu Ðức mẹ Guadalupe. Ðức Trinh Nữ ở đây được ám chỉ tới “Ðức Bà Trầm Lặng Ðầy Quyền Phép.” Bức tượng nơi đền thánh là Đức Mẹ với Chúa Hài Nhi được Đức Giáo hòang Gregory I gửi tới thánh Leander (550-600) tại Tây Ban Nha trước khi quân Marốc xâm chiếm. Ðể giữ bức tượng khỏi bị kẻ thù cướp đi, tượng được chôn dấu tại một cái hang cùng với giấy tờ nói về nguồn gốc của bức tượng và tượng thuộc về ai. Sau nhiều thế kỷ, một người chăn bò đã đào bức tượng lên vào năm 1326; anh nói rằng một Bà rất đáng yêu hiện ra với anh và cho anh biết chỗ để đào lấy báu vật. Bức tượng anh tìm thấy được làm bằng gỗ ở Đông phương, và không bị thiệt hại gì sau bao năm chôn vùi dưới đất. Một nhà nguyện được xây dựng để tồn giữ bức tượng. Mặc dầu vùng Estremadura hiểm trở, hầu như khó được khách du lịch đi đến, đền thánh vẫn được hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp, trong đó có các bậc vương giả, đến viếng. Ðức Mẹ có một tủ quần áo lớn và đắt tiền, và một số các lễ phục và đồ kim hoàn thật đẹp trong kho quý của đền thờ. Sự sùng kính Đức Mẹ Guadalupe đạt đỉnh cao khi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha ở Mexico được cảm hứng để truyền bá sự tôn sùng Đức Mẹ ở Thế giới Mới, do đó một đền thánh Đức Mẹ rất lớn ở miền Bắc Mỹ được xây dựng, để dâng kính Đức Mẹ cùng một tước hiệu như trên.
Et
Et, Etiam – cũng, còn là, ngay cả.
Eternal Death
Chết đời đời. Là số phận của người tội lỗi khi chết mà xa cách Chúa. Được gọi là sự chết bởi vì người ấy bị mất sự chiếm hữu Chúa, là Đấng ban sự sống cho linh hồn. Và sự chết này là đời đời bởi vì nó không bao giờ chấm dứt.
Eternal Law
Thiên luật, luật vĩnh cửu. Là kế hoạch sự khôn ngoan của Chúa, hướng dẫn mọi họat động và biến cố của vũ trụ này. Do đó, mệnh lệnh hữu hiệu không đổi thay của Chúa là buộc mọi loài thụ tạo phải chu toàn mục đích của mình, và dùng các phương tiện để đạt mục đích thích hợp tùy theo mỗi thụ tạo.
Eternal Life
Sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Từ ngữ được Chúa Kitô sử dụng để mô tả tình trạng hạnh phúc không nguôi của người công chính trên thiên đàng (Mt 25:46; Mc 9:44; Lc 18:30; Ga 3, 4, 5, 6, 10, 12). Nó có nghĩa, không chỉ là thời gian vĩnh cửu mà còn là viên mãn của sự sống, mà người tín hữu đã sở hữu khi này khi khác thông qua việc tham dự vào sự sống của Chúa.
Eternal Punishment
Hình phạt đời đời, trầm luân. Là hình phạt mãi mãi trong hỏa ngục mà các thiên thần sa ngã phải chịu và các người chết khi đang mắc tội trọng. Giáo hội dựa giáo huấn của mình về hình phạt đời đời vào lời Chúa Kitô, khi Chúa nói về ngày phán xét sau cùng (Mt 25:34, 41). Chúa so sánh lời phán quyết với người lành và lời phán quyết với kẻ dữ. Trước tiên với tư cách là thẩm phán, Chúa nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”. Rồi Chúa nhắc lại hai phán quyết cùng với một chữ kết luận như nhau, trước là nói với kẻ bị hư mất và sau đó nói với người được cứu độ. “Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn đời [aionios], còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời [aionios]” (Mt 25:46). Bởi vì không có vấn đề về thời gian vô tận ở thiên đàng, Giáo hội cũng kết luận như vậy về hỏa ngục. Hỏa ngục đời đời đã được Công đồng Lateran thứ tư định tín vào năm 1215.
Ethical Duty
Nghĩa vụ luân lý. Là một nghĩa vụ thật sự nhưng không có tính ràng buộc trong công bằng chặt chẽ. Đây là một trách nhiệm luân lý, chứ không là trách nhiệm pháp lý.
Ethos
Ethos, đặc tính, nét đặc trưng. Là tinh thần của một dân tộc hay văn hóa, hoặc nói một cách kỹ thuật, là toàn bộ các ý tưởng và thái độ của một cộng đồng đặc biệt trong quan hệ ứng xử.
Etiology
Tầm nguyên luận, nguyên nhân học, suy nguyên luận. Là khoa học tìm hiểu nguyên nhân hay lý do cho các sự vật. Nó có thể tập trung vào nghiên cứu một hiện tượng đặc biệt, chẳng hạn nguyên nhân học của một xáo trộn tâm thần hay luân lý, nghĩa là sự đổ vỡ của cuộc sống gia đình hay việc ngừa thai lan tràn.
Eubulia
Hiếu vấn, tư vấn đúng. Là nhân đức làm cho một người sẵn sàng tìm lời khuyên tốt nơi người khác, và vui vẻ đón nhận lời khuyên này. Đây là một trong các điều kiện của sự khôn ngoan và là điểm xuất sắc trong thảo luận. (Từ nguyên Latinh eubulia, khả năng, tài năng; lời khuyên hoàn hảo.)
Eucharistiae Sacramentum
Sắc lệnh Eucharistiae Sacramentum. Là một sắc lệnh của Thánh bộ Phụng tự, cho phép và giải thích việc Rước lễ và chầu Mình Thánh ngòai Thánh lễ. Sắc lệnh còn giải quyết nhiều vấn đề, như Rước kiệu Thánh Thể, Đại hội Thánh Thể, và việc cho Rước lễ trong và ngoài Thánh lễ. (Ngày 21-6-1973).
Eucharistic Acclamation
Lời tung hô Hiến tế tạ ơn. Chủ yếu là kinh ‘Thánh, Thánh, Thánh” (Sanctus) của Thánh lễ. Toàn cộng đoàn, hiệp nhất với các thiên thần trên trời, hát hay đọc “Thánh, Thánh, Thánh”, và kết thúc với lời người dân tung hô Chúa Kitô trong Chủ nhật Lễ Lá. Các lời hô vang khác của tín hữu trong phụng vụ cũng được gọi là lời tung hô.
Eucharistic Congress
Đại hội Thánh Thể. Là cuộc gặp gỡ quốc tế của các tín hữu để cổ vũ việc tôn sùng Phép Thánh Thể Bàn thờ. Tập tục này được khởi đầu với cuộc gặp gỡ địa phương nhờ nỗ lực của Đức Ông (Monsignor) Gaston de Ségur, tại Lille (Pháp) vào năm 1881. Qua thời gian các đại hội Thánh Thể phát triển thành tính cách quốc tế như hiện nay. Đại hội Thánh Thể năm 1908 tại London (Anh) là dịp đầu tiên có sự hiện diện một đặc sứ của Đức Giáo hoàng kể từ cuộc Cải Cách. Có hai đại hội Thánh Thể đã diễn ra tại Mỹ, đó là đại hội lần thứ 28 tại Chicago năm 1926 và đại hội lần thứ 41 tại Philadelphia năm 1976.
Eucharistic Devotions
Việc tôn sùng Thánh Thể. Là các tập tục đạo đức để tôn sùng Thánh Thể, được Tòa thánh chuẩn y và cổ vũ. Đó là Viếng Thánh Thể, Giờ Thánh, dự Chín ngày thứ Sáu Đầu tháng, chầu Phép lành, Rước kiệu Thánh Thể, Đêm Canh thức.
Eucharistic Doxology
Vinh tụng ca Thánh Thể. Là phần kết thúc Lễ Quy, vốn diễn tả lời chúc tụng Chúa trong ý nghĩa tuyệt đối của việc nhìn nhận Chúa Cao cả và thờ lạy Chúa Ba Ngôi, gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Eucharistic Elements
Yếu tố Thánh Thể, lễ phẩm Thánh Thể. Là chất liệu bề ngoài của Bí tích thánh thể, và lời Truyền phép được đọc trên chất liệu đó. Đó là bánh, được làm bằng bột mì, và rượu làm từ nước ép tự nhiên của trái nho. Trong nghi lễ Latinh bánh là bánh không men; còn trong các nghi lễ Đông phương, là bánh có men.