Eucharistic Fast
Chay tịnh Thánh Thể. Là việc kiêng ăn kiêng uống một giờ trước khi Rước lễ. Nguyên thủy là kiêng hòan tòan, kể cả nước và thuốc uống, kể từ nửa đêm trước ngày Rước lễ. Chỉ những người nhận của ăn đàng mới được miễn luật này. Năm 1953, Đức Giáo hòang Pius XII giảm việc chay tịnh này, là kiêng hoàn tòan thức ăn đặc, nhưng cho phép chất lỏng (trừ rượu) được dùng trước một giờ so với lúc Rước lễ. Năm 1964 Đức Giáo hòang Phaolô VI gỉam luật này hơn, là kiêng mọi thức ăn một giờ trước khi Rước lễ, nhưng cho phép dùng nước và thuốc uống bất cứ lúc nào trước khi Rước lễ. Năm 1973 Tòa thánh lại giảm việc chay tịnh Thánh Thể, chỉ kiêng thức ăn 15 phút trước khi Rước lễ cho người bệnh, người cao tuổi, và những người chăm sóc họ nếu việc giữ chay một giờ là quá khó đối với những người ấy.
Eucharistic Intercession
Phần chuyển cầu Thánh thể. Là các kinh đọc của linh mục trong thánh lễ, sau khi Truyền phép, vốn tuyên xưng niềm tin rằng Bí tích thánh Thể được cử hành trong sự hiệp nhất với tòan thể Giáo hội trên trời dưới đất, và rằng Bí tích này được dâng vì Giáo hội, và vì mọi thành phần Giáo hội đang sống và đã ly trần.
Eucharistic Invitation
Lời mời gọi Thánh Thể. Là lời mời gọi theo phụng vụ của Linh mục trong Thánh lễ, khi ngài nâng Mình Thánh Chúa lên cho mọi người nhìn, kêu mời họ hãy Rước lễ. Cùng với linh mục, mọi người diễn tả tình cảm khiêm nhượng bằng lời nói của viên bách quản trong Tin mừng.
Eucharistic Meal
Bữa tiệc Thánh Thể. Là việc Rước lễ làm của ăn cho linh hồn. Được hàm chứa trong lời Chúa Kitô khi Ngài bảo các người đi theo Ngài hãy ăn thịt Ngài và uống Máu Ngài, Bí tích Thánh Thể là nguồn nuôi dưỡng chính cho đời sống siêu nhiên. Cũng giống như thực phẩm cho đời sống thể xác, việc Rước lễ nuôi dưỡng cuộc sống thần linh này, tạo ra cảm giác hạnh phúc và no đủ trong linh hồn, và bảo vệ một người khỏi tàn phá của bệnh thiêng liêng hoặc tội lỗi.
Eucharistic Oblation
Kinh tiến dâng Thánh Thể. Sau lúc Truyền phép trong Thánh lễ, đây là kinh nguyện của Giáo hội hòan vũ và nhất là cộng đòan tập họp, trong đó Hy lễ thanh sạch được dâng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Sự tiến dâng có nghĩa rằng các tín hữu không chỉ dâng Chúa Kitô mà còn dâng chính họ khi hiệp nhất với Ngài. Chúa đã chết trên thập giá; họ sẽ chết cho chính họ trên thánh giá của họ, và nhờ đó họ đáng hưởng các ân huệ, mà chỉ có hy lễ mới xứng đáng trước mặt Chúa mà thôi.
Eucharistic Prayer
Lễ Quy, Kinh Tạ ơn. Là phần trung tâm của phụng vụ Thánh thể. Kinh Tạ ơn này gồm có tám phần, đó là kinh Tiền tụng, Tung hô, Kinh khẩn cầu Thánh Linh, Truyền Phép, Kinh hồi niệm, Dâng hiến, Chuyển cầu, và Vinh tụng ca. Lịch sử kinh này đã có từ thời các thánh Tông đồ.
Eucharistic Readings
Các bài đọc Thánh Lễ. Là việc đọc các đọan Kinh thánh trong Thánh lễ ở phần Phụng vụ Lời Chúa. Theo truyền thống việc đọc các đọan trích từ Kinh thánh là do một người khác chủ tế thực hiện. Vì vậy thầy Phó tế, hoặc một linh mục khác nếu có mặt ở đó, sẽ đọc bài Tin Mừng; nếu không linh mục chủ tế sẽ đọc. Một người đọc sẽ đọc các trích đoạn khác. Các dấu hiệu đặc biệt được tỏ ra khi nghe đọc bài Tin mừng, với việc cả cộng đoàn đứng lên và thưa đáp với linh mục khi mở đầu và khi kết thúc bài dọc Tin Mừng. Trong các dịp long trọng, sách bài đọc được xông hương trước phần đọc bài Tin mừng.
Eucharisticum Mysterium
Huấn thị Eucharisticum Mysterium (Mầu nhiệm Thánh Thể). Huấn thị của Thánh bộ Lễ điển về thờ phượng Phép Thánh Thể. Văn kiện được chia thành hai phần, một phần bàn về các nguyên tắc và một phần bàn về việc thực hành. Nguyên tắc chính nói rằng Thánh Thể chính là Chúa Giêsu Kitô, do đó Thánh Thể phải được tôn kính như là trung tâm của lòng mộ đạo Công giáo. Các việc thực hành chính mà mọi tín hữu cần làm là: 1. duy trì tinh thần hiệp nhất trong cử hành Thánh lễ; 2. tái lập ngày Chủ nhật là trung tâm điểm, tập trung chung quanh phép Thánh Thể; 3. cổ vũ các tín hữu Rước lễ; 4. lưu giữ Mình Thánh Chúa; 5. cổ vũ lòng tôn sùng Mình Thánh Chúa qua việc đặt và chầu Thánh Thể (ngày 25-5-1967) (lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô).
Eudaemonia
Hạnh phúc. Hạnh phúc như là sự an lành vui thỏa được liên kết với khái niệm của Aristotle về sự thỏa mãn cho con người. (Từ nguyên Hi lạp eudaimonia, hạnh phúc, eu, tốt lành + daim_n, tinh thần.)
Eudists
Tu sĩ Dòng thánh Gioan Eudes. Thành viên của Dòng Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria được thánh John Eudes (1601-80) thành lập tại Caen (Pháp) năm 1643. Đây là dòng các linh mục, được thành lập để quản lý các chủng viện. Bị cuộc Cách mạng Pháp tiêu diệt gần hết, Dòng tái lập vào năm 1826 và chuyên lo các trường trung học. Nhánh dòng nữ mang tên Dòng Nữ tu Đức Mẹ nương náu, trở thành cộng đoàn độc lập từ năm 1657. Dòng nữ này còn có thêm lời khấn thứ tư là chăm sóc các phụ nữ sa ngã.
Eugenics
Thuyết ưu sinh, ưu sinh học. Là khoa học về ảnh hưởng của di truyền và môi trường để cải thiện phẩm chất thể lý và tinh thần cho các thế hệ tương lai. Tên của thuyết được sử dụng lần đầu tiên bởi Francis Galton (1822-1911), bà con của ông Charles Darwin (1809-82). Nói chung, có hai dạng ưu sinh. Một dạng cực đoan bênh vực cho việc bắt buộc những người ưu tuyển sinh con đẻ cái, người nghèo phải ngừa thai và người không có năng lực phải triệt sản và chịu an tử. Ưu sinh học ôn hòa cổ vũ việc nghiên cứu cách làm giảm số người khuyết tật tâm thần và thể xác mà không áp dụng các biện pháp cưỡng bách. Giáo hội Công giáo mạnh mẽ ủng hộ ý tưởng nói rằng người ta có quyền sử dụng các biện pháp hợp lý và thích hợp để cải thiện điều kiện thể lý và tâm trí của mình và của con cái mình. Nhưng Giáo hội lên án các nhà ưu sinh học, khi trong quan điểm thiển cận của họ, họ ca ngợi ưu sinh học như là vô cùng tốt và do đó, họ dùng các phương tiện bất hợp pháp để đẩy mạnh mục đích của họ. Thuyết ưu sinh đã đóng góp đáng kể cho việc áp dụng ngừa thai, triệt sản, phá thai và cái chết êm dịu. (Từ nguyên Hi lạp eugen_s, sinh ra tốt.)
Eugenic Sterilization
Triệt sản ưu sinh. Là làm cho một người mất khả năng sinh đẻ nhằm lọai trừ những đứa con có thể ra đời với dáng vẻ không được ưa thích, và nhằm phát triển một môi trường thuận lợi hơn cho những đứa trẻ ra đời với những nét bên ngoài hấp dẫn. Giáo hội Công giáo cấm tiến trình này bởi vì “các quan chức chính quyền không có quyền trực tiếp trên thân thể của người dân. Vì vậy, nơi nào không có tội ác xảy ra và không có nguyên nhân để trừng phạt người phạm tội, họ không thể trực tiếp làm hại hoặc can thiệp vào thân thể người dân, hoặc vì lý do ưu sinh hoặc vì bất cứ lý do nào khác” (Đức Giáo hòang Pius XI, thông điệp Casti Connubii (Hôn nhân khiết tịnh), II, 68-70).
Eulogia
Phép lành, bánh hiến thánh. Từ ngữ này được dùng vào thời Giáo hội sơ khai để mô tả phép lành, và cũng diễn tả một vật được làm phép, nhất là bánh mì. Từ ngữ này cũng diễn tả “bánh thánh hiến” (pain bénit) mà thỉnh thỏang được làm phép ở nhà thờ, rồi được ăn tại chỗ hay đưa về nhà riêng. Như thế, bánh thánh hiến một cách nào đó có nghĩa là Mình Thánh Chúa. (Từ nguyên Hi lạp eulogia, chúc tụng; nghĩa đen là nói tốt.)
Eulogy
Điếu văn tụng thể, bài tán dương. Là bài văn chính thức và công khai ca ngợi một người, một biến cố hay một vật thể, nhất là vinh danh một người mới qua đời. Điếu văn tụng thể cho thánh Ambrose do Hoáng đế Valentinian (năm 392) đọc đã trở thành một phần của lịch sử các giáo phụ. (Từ nguyên Hi lạp eulogia, ca ngợi, chúc tụng praise; nghĩa đen là nói tốt.)
Eunomianism
Thuyết Eunomius. Là giáo huấn lạc giáo của Eunomius (qua đời năm 395), giám mục người Arian của giáo phận Cyzicus ở Mysia. Thuyết này chủ trương rằng Chúa là tuyệt đối độc nhất, nên Ngôi Hai không thể sinh ra với thiên tính. Thuyết nói Ngôi Hai và Ngôi Ba đã được tạo thành. Những người theo thuyết Eunomius cũng chối bỏ giá trị của bất cứ việc thờ phượng nào, hoặc nhu cầu lãnh nhận các Bí tích.
Evang., Evgl.
Evang., Evgl., Evangelium—Tin Mừng, Phúc Âm, Thánh sử, Phúc Âm gia. (Từ nguyên Hi lạp eu-, tốt + angelos, sứ giả: euangelos, mang tin tốt lành.)
Evangelical Obedience
Đức Vâng lời Phúc Âm, đức tuân phục Phúc Âm. Là sự hạ mình tự nguyện của một người để vâng lời bề trên hợp pháp của mình, vượt quá đòi hỏi sự vâng lời quy định cho mọi tín hữu. Đây là người đầu hàng tự do cho tính độc lập của mình, theo các chỉ thị của Giáo hội, để bắt chước Chúa Kitô một cách tốt hơn, và để cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu chuộc, vì Chúa là Đấng đã vâng lời cho đến chết, chết trên cây Thập gía. Đức vâng lời này là ổn định qua lời khấn vâng lời với bề trên trong một Dòng tu, hoặc với cha giải tội hay cha linh hướng của người khấn vâng lời.
Evangelica Testificatio
Tông huấn Evangelica Testificatio (Chứng tá Phúc Âm). Là tông huấn của Đức Giáo hoàng Phaolô VI về đời tu. Đây là văn kiện quan trọng nhất về đời tu kể từ Công đồng chung Vatican II. Văn kiện nhìn nhận rằng một số người đang đặt vấn nạn về sự hiện hữu thật sự của đời tu trì. Mục đích chính của tông huấn là thúc giục các tu sĩ hay trung thành với đoàn sủng của các vị sáng lập Dòng tu, và vun trồng một đời sống thiêng liêng vững mạnh, mà trung tâm là Phép Thánh Thể. (Ngày 29-6-1971).
Evangelism
Thái độ nhiệt tình truyền bá Tin Mừng, thái độ duy Phúc Âm. Là sự rao giảng Tin Mừng cách nhiệt tình, thường áp dụng cho những người hoặc các Dòng tu quyết tâm giúp cho nhiều người trở lại đạo Chúa. Từ ngữ này có nghĩa cơ bản là nhiệt tình truyền bá sứ điệp Tin Mừng, nhưng cũng được dùng trong nghĩa tiêu cực để nói về thái độ duy Phúc Âm, cổ vũ Kitô giáo cách xông xáo quá mức.
Evangelist
Thánh sử, Phúc Âm gia, người rao giảng Tin Mừng. Nói chung, là người rao giảng Tin Mừng. Tân ước dùng từ ngữ này để mô tả một người đi loan báo Tin Mừng (Cv 21:8; Ep 4:11; và II Tm 4:5). Như thế, nó nói đến một chức năng hơn là một chức vụ. Kể từ thế kỷ thứ ba, thánh sử được chủ yếu dùng để chỉ một trong bốn vị viết Tin Mừng: đó là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan.
Evangelist Of Mary
Thánh sử của Đức Mẹ Maria. Là một tước hiệu của thánh Luca, vì Tin Mừng của ngài cho chúng ta hầu hết các sự việc chúng ta biết về Đức Mẹ Maria. Trong hai lần, khi các người chăn chiên đến viếng thăm Chúa Hài Đồng ở Bê-lem (Lc 2:19) và sau khi Đức Mẹ tìm thấy Chúa trong Đền Thờ (Lc 2:51), thánh Luca ghi lại rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Ngay cả người duy lý như ông Adolf von Harnack (1851-1930) cũng nhận xét rằng "các trình thuật ấy phải được xem như là lời Đức Mẹ Maria kể lại”. Truyền thống Kitô giáo chủ trương rằng một trong các nguồn mà thánh sử Luca nói là hỏi han để viết Tin Mừng (Lc 1:3) chính là kinh nghiệm bản thân của Đức Trinh Nữ Maria.
Evangelium
Evangelium, Tin Mừng, Phúc Âm. Trong Kinh thánh Phổ thông Latinh, Tin Mừng thường có nghĩa là Tân Ước, để phân biệt với các sách Cựu Ước của Kinh thánh, hay là toàn bộ Giao Ước mới của Chúa với Dân Người.
Evangelization
Rao giảng Tin Mừng, Phúc Âm hóa, Truyền giáo. Là việc rao giảng nhiệt tình Tin Mừng để đem nhiều người đến với Chúa Kitô và Giaó hội của Chúa. Đức Giáo hoàng Phaolô VI nói: “Đối với Giáo Hội, việc truyền giáo có nghĩa là đem Tin Mừng đến cho mọi tầng lớp nhân loại, và qua ảnh hưởng của nó biến đổi nhân loại từ bên trong cùng canh tân nó, ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự’ (Kh 21:5). Nhưng sẽ không có nhân lọai mới nếu trước tiên không có những con người mới được đổi mới bằng phép Rửa tội, và đổi mới bởi những người đã sống theo đúng Tin Mừng” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Loan báo Tin Mừng, 18). Như vậy, việc rao giảng Tin Mừng có ba yếu tố nổi bật: 1. hoán cải bên trong với Chúa và Giáo hội; 2. ảnh hưởng không chỉ cho cá nhân mà cho cả nền văn hóa; và 3. kết quả là thay đổi nền văn hóa này và các định chế của nó, để làm cho chúng trở nên có tính Kitô và Công giáo. (Từ nguyên Latinh evangelium; từ chữ Greek euangelion, tin tốt, thưởng vì đem tin tốt, từ chữ euangelos, mang tin tốt: eu-, tốt, + angelos, sứ gỉa.)
Evangelize
Phúc Âm hóa, rao giảng Tin Mừng. Nói chung, là Phúc Âm hóa, như Chúa Giêsu Kitô đã sống và đã dạy. Một cách đặc biệt hơn, nó có nghĩa là đem Mặc khải Kitô giáo cho những người và nền văn hóa, mà Tin mừng chưa được rao giảng có hiệu quả cho họ.
Eve
Eve, bà E-và. Là người nữ đầu tiên, vợ của ông A-đam và là mẹ của chúng sinh (St 3:20).
Evening Prayer
Giờ Kinh Chiều. Là giờ kinh thứ tư của Thần tụng, cũng còn gọi là Vespers (Kinh Chiều). Giờ kinh này gồm có một thánh thi, hai thánh vịnh, một bài thánh ca Cựu Ước hay Tân Ước, Lời Chúa: một bài đọc Kinh thánh ngắn, Thánh ca Tin mừng: kinh “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa” (Magnificat), Xướng đáp ca, Lời cầu và Lời nguyện kết thúc.
Evensong
Giờ Kinh chiều (Anh giáo). Là danh từ Trung Cổ tại Anh để chỉ Giờ Kinh Chiều. Từ ngữ được người Công giáo tiếp tục dùng sau cuộc Cải Cách, nhưng hiện nay chỉ còn người Anh Giáo dùng từ này để chỉ Giờ Kinh Chiều của họ.
Evesham
Đền thánh Evesham. Là một đền thánh dâng kính Đức Mẹ tại Worcestershire, Anh, bên sông Avon. Đây là một nơi Đức Mẹ hiện ra thật sự, khi vào thế kỷ thứ tám, Đức Mẹ hiện ra với một người chăn heo tên là Eoves, bảo anh ấy đi gặp Giám mục và xin Giám mục xây một đền thờ cho Đức Mẹ ở cánh rừng gần đó. Người ta ít biết về đền thờ đầu tiên này, nhưng Bà Godiva (khoảng năm 1010-67) đã xây dựng lại hòan toàn nhà thờ, và nó trở thành một địa điểm hành hương được ưa thích cho đến cuộc Cải Cách. Người dân Evesham và vùng lân cận đã xây dựng lại một đền thờ mới, được nhiều người đến hành hương hơn, sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Evidence
Hiển nhiên, bằng chứng. Nền tảng hoặc lý lẽ cho tri thức, nhất là tri thức phù hợp với xác thực tính.
Evidence, Circumstantial
Bằng chứng hòan cảnh. Là sự hội tụ của các sự việc và chứng cớ về một sự kiện mà chỉ có một kết luận hợp lý được rút ra, mặc dầu không có sự hiểu biết trực tiếp về sự kiện hoặc các chứng nhân trực tiếp, để xác minh việc đã xảy ra.
Evidence, Extrinsic
Bằng chứng ngọai tại. Là các nền tảng để đồng ý một điều dựa vào thế giá của người khác. Nó được gọi là bằng chứng ngọai tại, bởi vì nó không nổi lên trực tiếp từ đối tượng, nhưng từ lời của một người mà khả tín tính (thế giá) của người này bảo đảm việc chấp nhận là đúng.
Evidence, Intrinsic
Bằng chứng nội tại. Là nền tảng bên trong của sự hiểu biết một điều, và do đó không đòi hỏi chứng cớ của một thế gía khác để đáng được tin nhận. Đối tượng là khả tri từ kinh nghiệm và lý trí, chứ không dựa vào lòng tin.
Evidence, Objective
Bằng chứng khách quan. Là thực tế của một sự việc, vốn quá rõ ràng đối với tâm trí mà nó đòi hỏi sự đồng ý, do chính đối tượng, chứ không do các nền tảng chủ quan khác để được chấp nhận.
Evidence, Subjective
Bằng chứng chủ quan. Là nền tảng cá nhân mà một người có, để làm một phán đóan hay là chắc chắn về sự việc. Đó là sự thỏa mãn, thật sự hoặc hy vọng, mà một người có được từ việc chấp nhận một sự việc là đúng thật.
Evil
Sự dữ, xấu, ác. Là việc thiếu sự lành đáng ra phải hiện diện. Đó là thiếu sự lành vốn tùy thuộc cốt yếu vào một bản tính; là vắng sự lành vốn là tự nhiên và thuộc về hữu thể. Do đó sự dữ là vắng điều đáng lẽ phải có ở đó.
Evil Desire
Ước muốn sự dữ. Là ước muốn hay mong ước làm một điều bị cấm đóan. Một ước muốn tuyệt đối về điều gì là tội lỗi là một tội cùng lọai luân lý, và là tội trọng như hành động xấu được ước muốn, dù sự ước muốn là có hiệu quả hay không.
Evil Habits
Thói tật xấu, thói hư tật xấu. Là tật xấu thủ đắc qua việc lặp đi lặp lại các hành vi luân lý xấu. Như một luật chung, các thói tật xấu không làm giảm sự quy tội cho các hành vi xấu được thực hiện bởi thói quen, nếu thói quen được công nhận là xấu và được cho phép tự do tiếp tục làm. Mặt khác, các thói tật xấu sẽ làm giảm tội cho các hành vi xấu đuợc thực hiện bởi thói quen, nếu người ấy thành tâm thống hối và cố gắng sửa chữa thói quen.
Eviternity
Sự vĩnh tồn, trường tồn, bất tử. Là thời gian dài lâu với các khỏang cách định kỳ hay bất kỳ của sự đổi thay trong các loài thụ tạo như thiên thần hay vũ trụ vật chất. Sự vĩnh tồn là nằm giữa sự vĩnh cửu (đời đời, hằng hữu) mà chỉ Chúa có, và sự thay đổi thời gian liên tục nơi mỗi hữu thể. (Từ nguyên Latinh aevum, thời gian không bao giờ kết thúc.)
Evolution
Tiến hóa. Là thuyết nói rằng mọi sự đã và đang trong tình trạng phát triển cần thiết. Tiến hóa duy vật thừa nhận sự hiện hữu muôn đời của vật chất không tạo dựng, và rồi giải thích sự xuất hiện của mọi sinh vật, thực vật, con người, cả xác lẫn hồn, qua một tiến trình tiến hóa tự nhiên. Điều này trái với Mặc khải Kitô giáo. Tiến hóa hữu thần là dung hợp với Kitô giáo, miễn là nó mặc nhiên công nhận sự quan phòng đặc biệt của Chúa, liên quan đến thể xác con người và sự sáng tạo riêng linh hồn mỗi người.
Evolutionism
Thuyết tiến hóa. Là thuyết cho rằng mọi sự trong vũ trụ, kể cả thế giới thần linh, có thể được giải thích bởi sự phát triển tự nhiên và cần thiết từ lòai thấp lên lòai cao, và trong triết học của Hegel, từ vô thể đến hữu thể.
Ex
Ex, Extra -- ngòai.
Examen, General
Xét mình chung. Là sự xét mình định kỳ hàng ngày trong cầu nguyện để xác định lỗi nào mình đã phạm, nhằm ăn năn sám hối, và việc lành nào đã làm, nhằm cảm tạ Chúa.
Examen, Particular
Xét mình riêng. Là sự xét mình đều đặn trong cầu nguyện, bằng cách tập trung vào một thiếu sót luân lý đặc biệt để thắng vượt nó, hoặc vào một nhân đức để thực thi. Mục đích là các diễn tả bề ngòai của lỗi lầm hay nhân đức có thể được nhớ cho kiểm điểm định kỳ. Việc xét mình riêng được thay đổi từng tuần, từng tháng, hoặc khác hơn để bảo đảm tối đa sự quan tâm. Việc xét mình cũng cần được liên kết với việc khẩn cầu Chúa trợ giúp, như khi có dịp để tránh tội hoặc thực thi nhân đức. Và sau một thời gian, cần khởi đầu một chu kỳ khác cho các nết xấu mà một người cần phải vượt thắng, hoặc các tập quán tốt mà người ấy cần triển khai.
Examination Of Conscience
Xét mình xưng tội. Là sự nhìn lại tình trạng linh hồn mình trước mặt Chúa, nghĩa là chuẩn bị để xưng tội.
Examiner
Vị giám khảo giáo phận. Trong phủ giáo phận, là vị linh mục thuộc hội đồng xét duyệt việc chuyển đổi mục tử ở các giáo xứ.
Exarch
Exarch, Tổng giám quản, tổng giám mục. Nguyên thủy là một chức danh của các nhà lãnh đạo phần đời và phần đạo. Tổng giám quản là một tổng giám mục có quyền tài phán vượt quá giáo tỉnh của mình, và các tổng giám quản quan trọng nhất là tổng giám quản của Ephesus và Caesarea. Từ ngữ “Đại diện tông tòa” ở Tây phương được thay thế bằng “Tổng giám quản”. Ngày nay từ ngữ này được dùng cho các vị đứng đầu người Công giáo Nga và Hi Lạp theo nghi lễ Byzantine, và cho vị đại diện thượng phụ của giáo hội bảo hòang ở Jerusalem. Một số giám mục Ukraina ở Bắc Mỹ ngày nay cũng gọi là exarch (tổng giám mục). (Từ nguyên Latinh exarchus; từ chữ Hi Lạp exarchein, bắt đầu, dẫn đầu.)
Exc
Exc, Excommunicatus, excommunicatio—Người bị tuyệt thông, vạ tuyệt thông.
Excardination
Xuất tịch. Là việc nhượng vĩnh viễn một giáo sĩ từ quyền tài phán của một giám mục này qua quyền tài phán của một giám mục khác. Việc xuất tịch là không có hiệu lực, trừ phi giáo sĩ này nhận được thư tuyệt đối và vĩnh viễn cho phép nhập vào giáo phận khác hoặc hạt đại diện tông tòa khác. Để có hiệu lực, thư xuất tịch phải được giám mục ký tên. Việc nhận quyền cư trú trong giáo phận khác đòi hỏi sự xuất tịch khỏi một giáo phận. Một tu sĩ khấn trọn đời là giống như xuất tịch khỏi giáo phận của mình.
Ex Cathedra
Ex Cathedra, Từ thượng tòa, Do thượng giáo tòa. Từ ngữ này thường được áp dụng cho sự thực thi đặc biệt và minh nhiên tính bất khả ngộ của Đức Giáo hòang. Khi Đức Giáo hòang phát ngôn từ ngai tòa (cathedra) quyền bính của Ngài, với tư cách là thủ lĩnh hữu hình của mọi Kitô hữu, giáo huấn của Ngài không tùy thuộc vào sự ưng thuận của Giáo hội và không thể sửa đổi được. (Từ nguyên Latinh ex cathedra, từ cái ghế, từ ngai.)
Excellency
Ngài, Đức (Đức Cha). Cách xưng hô riêng với một giám mục hay tổng giám mục. Đây cũng là cách xưng hô trong địa chỉ của các thượng phụ, thay vì "His Beatitude" (Trọng kính Ngài, Đức Thượng phụ), như Thánh bộ Nghi lễ quyết định vào năm 1983.